Nghe kém là tình trạng người bệnh có thể nghe âm thanh, nhưng rất kém hoặc có thể không nghe thấy ai đó nói, ngay cả khi họ đang sử dụng giọng nói bình thường hoặc có thể chỉ nghe thấy những âm thanh rất lớn. Nghe kém còn được gọi là khiếm thính, hay là mất thính lực. Trên biểu đồ đo thính lực đơn âm chủ quan, nghe kém xảy ra khi cường độ sức nghe của tai ≥ 25 dB.
Nghe kém thường gặp ở những đối tượng nào?
Nghe kém có thể gặp ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên, tuổi càng cao thì nguy cơ mắc bệnh nghe kém càng cao. Khoảng 80% nghe kém xảy ra ở người lớn tuổi. Đối với người từ tuổi 60 trở đi hiếm ai không bị nghe kém hoặc sức nghe không suy giảm so với thời còn trẻ. Ngoài ra, nghe kém còn xuất hiện ở những người bị bệnh lý ở tai, bệnh lý ở dây thần kinh thính giác, u não, viêm não - màng não, những người làm việc trong môi trường có tiếng ồn vv…
1. Tuổi càng cao nguy cơ nghe kém càng nhiều.
Nghe kém có thể nhiều hơn ở độ tuổi trên 55-60 tuổi. Tuy nhiên, nghe kém cũng có thể xuất hiện ở độ tuổi sau 30 tuổi, sau đó cứ 10 năm, mức nghe kém lại tăng dần. Nguyên nhân là con người tuổi càng cao thì các cơ quan càng bị lão hóa, trong đó dây thần kinh thính giác cũng sẽ bị lão hóa, hoặc bị phá hủy hoàn toàn. Điều này dẫn đến giảm khả năng tiếp nhận, dẫn truyền tín hiệu của tai tới não từ đó xảy ra tình trạng nghe kém.
2. Những người làm việc trong môi trường tiếng ồn.
Nghiên cứu cho thấy cường độ âm thanh nguy hiểm cho tai là từ > 85 decibel. Do đó mọi âm thanh to với cường độ lớn và kéo dài đều có thể gây tổn thương cấu trúc trong tai dẫn tới suy giảm thính lực. Những người làm việc trong môi trường tiếng ồn, thì sẽ dễ bị nghe kém. Điển hình như: Thợ mỏ, thợ mộc, thợ khai thác đá, thợ hàn xì, thợ xây, lái tàu hỏa, người làm việc trong công xưởng sản xuất có nhiều tiếng ồn.
3. Những người mắc những bệnh lý có thể dẫn đến nghe kém.
Nghe kém một phần phát hiện do mắc bệnh tác động đến tai, đặc biệt liên quan đến trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ mắc các bệnh lý viêm nhiễm ở tai, viêm mũi họng biến chứng lên tai. Điển hình là bệnh viêm tai giữa, viêm tai trong, viêm màng não vv… Một nghiên cứu ở Anh cho thấy trong 432 trẻ bị viêm màng não ở Anh thì có 59 trẻ (13,7%) bị nghe kém, trong đó 46 trẻ (78%) bị nghe kém tiếp nhận vĩnh viễn, số trẻ còn lại bị điếc tiếp nhận hoặc điếc không ổn định. Ngoài ra, người mắc các bệnh lý về tim mạch, huyết áp và tiểu đường cũng bị nghe kém do các bệnh lý này đều có thể gây cản trở lượng máu lưu thông đến tai.
4. Những người phải dùng thuốc có nguy cơ ảnh hưởng đến sức nghe.
Một số thuốc điều trị bệnh có tác dụng phụ gây ù tai, từ đó dẫn đến nghe kém. Ngoài ra, thuốc điều trị lao, tim mạch, ung thư cũng có tác động gây nghe kém cho người sử dụng lâu dài.
5. Những người bị chấn thương.
Người bị các chấn thương vùng đầu và tai có thể gây ra nghe kém tạm thời hoặc nghe kém vĩnh viễn. Chấn thương vùng đầu sẽ tác động khiến thủng màng nhĩ, vỡ xương thái dương và ảnh hưởng đến cấu trúc của tai trong, do đó có thể dẫn đến nghe kém.
Một số nguyên nhân gây nghe kém.
1. Nghe kém do di truyền
Di truyền hiện là nguyên nhân hàng đầu của nghe kém bẩm sinh ở trẻ em. Thống kê có khoảng 50% tất cả các trường hợp nghe kém bẩm sinh là do di truyền. Đã có một số nghiên cứu khẳng định những gia đình có bố hoặc mẹ bị nghe kém thì con của họ có khả năng bị nghe kém cao hơn so với những đứa trẻ khác.
2. Biến chứng trong khi mang thai
Một số trường hợp mẹ bị một số bệnh nhiễm trùng như Rubella, giang mai trong quá trình mang thai có thể là nguyên nhân gây nghe kém hoặc điếc ở những đứa trẻ do họ sinh ra. Ngoài ra một số bà mẹ dùng thuốc nhóm aminoglycosides, cytotoxic, thuốc điều trị sốt rét và thuốc lợi tiểu trong quá trình mang thai cũng có nguy cơ gây nghe kém bẩm sinh cho con. Ngoài ra, trẻ đẻ non, cân nặng khi sinh thấp cũng nằm trong nhóm trẻ bị nghe kém do biến chứng thai kỳ.
3. Do bệnh lý nhiễm trùng ở tai mũi họng, viêm dây thần kinh thính giác, viêm não – màng não.
4. Bệnh lý khối u
U dây thần kinh thính giác, u não, u màng não, u vòm họng.
5. Thủng màng nhĩ
Tiếng nổ lớn, áp lực thay đổi đột ngột, chọc vào màng nhĩ bằng một vật nhọn. Viêm tai nhiễm trùng gây thủng màng nhĩ.
6. Ráy tai.
Ráy tai có thể chặn ống tai và ngăn sự truyền sóng âm thanh, từ đó gây nghe kém.
7. Do tác dụng không mong muốn của thuốc.
Một số loại thuốc kháng sinh dùng điều trị nhiễm khuẩn có thể gây ảnh hưởng đến bộ phận ốc tai và tiền đình như gentamicin, streptomycin, tobramycin. Những thuốc này có thể diệt vi khuẩn nhưng cũng gây chết tế bào lông, từ đó gây nghe kém.
Phân loại nghe kém
1. Nghe kém dẫn truyền
Thường là hậu quả của tổn thương tai ngoài và tai giữa. Khi đó hệ thống dẫn truyền âm thanh gồm vành tai, ống tai, màng nhĩ và các xương con bị tổn thương nên không còn chức năng dẫn truyền âm thanh từ ngoài vào trong.
2. Nghe kém tiếp nhận
Là hiện tượng các bộ phận dẫn truyền hoạt động bình thường nhưng tai trong lại bị tổn thương nghiêm trọng. Từ đó, âm thanh truyền đến tai không được tiếp nhận và không đưa thông tin lên bộ não. Bệnh này thường do tổn thương ốc tai, thường gặp ở người cao tuổi, người làm việc trong môi trường có tiếng ồn, điếc bẩm sinh.
3. Nghe kém hỗn hợp
Là hỗn hợp của giảm thính lực dẫn truyền và giảm thính lực tiếp nhận. Người bệnh sẽ bị tổn thương nhiều vị trí như tai ngoài, tai giữa, tai trong.
Biểu hiện của nghe kém
Nghe kém có nhiều biểu hiện để nhận biết, nhưng điển hình nhất là khó hiểu lời của người khác nói và yêu cầu họ nói lại, nói to hơn. Người bị nghe kém sẽ có những biểu hiện như:
Cảm nhận tiếng nói, âm thanh khác đều nhỏ lại
Khó hiểu lời nói của người khác đặc biệt nơi đông đúc, ồn ào
Nghe thông tin lẫn lộn, khó phân biệt âm thanh
Tai có tiếng kêu trong tai.
Thường xuyên yêu cầu người khác nói lại, nói chậm hơn, nói to hơn
Tăng âm lượng điện thoại, tivi, loa đài khiến người khác khó chịu vì quá to
Không thể tiếp nhận kịp cuộc đàm thoại vì không hiểu người khác nói gì
Hướng xử trí khi bị nghe kém.
Khi thấy có biểu hiện ù tai nghe kém cần đi khám bác sĩ chuyên khoa Tai mũi họng ngay để có hướng xử trí phù hợp bởi vì nhiều người thấy rằng nghe kém không nguy hiểm đến tính mạng nên thường đến khám trễ do vậy đối với những người mắc bệnh điếc đột ngột (Là một cấp cứu trong những bệnh lý tai mũi họng) thường bỏ qua thời gian vàng nên không được điều trị kịp thời để lại di chứng đáng tiếc về sau.
Hiện nay những phương pháp điều trị để lấy lại sức nghe cho người bệnh tùy thuộc vào nguyên nhân cụ thể.
Loại bỏ ráy tai: Nếu nguyên nhân do ráy tai đây là nguyên nhân hay gặp và dễ xử lý nhất.
Điều trị bằng thuốc để giải quyết các tình trạng viêm nhiễm, tăng cường tuần hoàn tai trong, ngộ độc thuốc.
Phẫu thuật: Phẫu thuật bao gồm vá màng nhĩ, chỉnh hình chuỗi xương con. Nếu người bệnh bị viêm tai giữa ứ dịch dai dẳng, bác sĩ có thể đặt ống thông nhĩ giúp tai thoát dịch.
Thiết bị trợ thính: Nếu nghe kém do tổn thương tai trong, máy trợ thính sẽ phát huy hữu ích.
Cấy ghép ốc tai điện tử: Không giống như máy trợ thính khuếch đại âm thanh và hướng nó vào ống tai, ốc tai điện tử giúp thay thế chức năng của các bộ phận bị hư hỏng và trực tiếp kích thích dây thần kinh thính giác
Một số biện pháp phòng ngừa, hạn chế tình trạng nghe kém
Để hạn chế nguy cơ nghe kém, nguy cơ tai tổn thương dẫn đến nghe kém thì người dân cần chủ động thăm khám kiểm tra chức năng nghe thường xuyên. Ở người trưởng thành cũng cần chủ động bảo vệ đôi tai khi làm việc trong môi trường nhiều tiếng ồn. Riêng tình trạng nghe kém rất nguy hiểm nếu xảy ra ở trẻ nhỏ và trẻ sơ sinh mà không phát hiện can thiệp kịp thời có thể dẫn đến điếc, kém phát triển ngôn ngữ. Do đó, để phòng ngừa nghe kém chúng ta cần lưu ý như sau:
1. Cần tầm soát, kiểm tra chức năng nghe
Hiện nay Việt Nam nằm trong số các quốc gia có tần suất nghe kém cao nhưng phát hiện trễ do không được tầm soát phát hiện kịp thời. Với sự phát triển y học, hiện nay tại có thể đo chức năng tai kiểm tra người bệnh có mất thính lực hay không, mức độ nặng hay nhẹ, nghe kém do nguyên nhân gì.
2. Tầm soát nghe kém ở trẻ
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), năm 2020 có hơn 5% dân số bị nghe kém, trong đó trẻ em chiếm 9%. Vì thế, phát hiện, tầm soát sớm có vai trò quan trọng trong kết quả của quá trình can thiệp nghe kém ở trẻ nhỏ.
Trẻ sơ sinh: Trẻ sơ sinh chào đời cần sàng lọc thính lực trước khi rời bệnh viện. Nếu trẻ không vượt qua được kiểm tra sàng lọc, bố mẹ phải đưa trẻ khám chuyên khoa Tai Mũi Họng để kiểm tra thính giác.
Trẻ lớn hơn và trẻ em: Trẻ xuất hiện các triệu chứng mất thính lực, phụ huynh nên đưa trẻ đến bệnh viện kiểm tra kịp thời. Trẻ có nguy cơ cao mất thính giác hoặc chậm phát triển nên cần được kiểm tra thính giác từ 2 đến 2,5 tuổi.
Phòng ngừa khi mang thai: trước và trong quá trình mang thai cần tiêm ngừa đầy đủ, tránh nhiễm virus trong 3 tháng đầu thai kỳ gây ra các dị tật và điếc bẩm sinh.
3. Cần phải chăm sóc, vệ sinh tai thường xuyên
Vệ sinh tai là cách tốt nhất để hạn chế tình trạng ráy tai bít ống tai. Tuy nhiên, chúng ta phải biết vệ sinh tai đúng cách, không tự ý chọc ngoáy lấy ráy tai bằng các vật sắc nhọn vì có thể gây tổn thương cấu trúc của tai, thậm chí gây thủng màng nhĩ.
4. Đeo tai nghe đúng cách
Học sinh, sinh viên, người làm việc văn phòng nên hạn chế đeo tai nghe mở nhạc mức độ lớn. Khi đeo tai nghe nên đeo ở mức độ vừa phải, nên cho tai nghỉ ngơi sau một thời gian đeo tai nghe.
5. Cần bảo vệ tai
Khi sinh hoạt, làm việc ở các nơi quá ồn ào, âm thanh lớn. Chúng ta có thể sử dụng nút bịt tai chống tiếng ồn.
6. Khám và kiểm tra thính lực thường xuyên
Theo nghiên cứu, sau 30 tuổi sức nghe của tai sẽ bắt đầu suy giảm sau đó cứ 10 năm sức nghe của tai lại giảm đi một bậc. Cần kiểm tra thính lực thường xuyên để đảm bảo khả năng nghe, thực hiện đối với cả người lớn và trẻ nhỏ.
Nghe kém không phải là bệnh nguy hiểm, ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe người trưởng thành, nhưng lại gây khó khăn trong giao tiếp ảnh hưởng chất lượng cuộc sống. Về lâu dài, bệnh không được chữa trị thì người giảm thính lực có nguy cơ bệnh trầm cảm do họ tự thu mình, ít giao tiếp. Riêng đối với trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ, nếu nghe kém không phát hiện kịp thời sẽ dẫn đến khiếm khuyết suốt đời trong ngôn ngữ, lời nói. Do đó việc thăm khám kiểm tra thính lực tại bệnh viện rất quan trọng.