Những mốc phát triển quan trọng của VNPT

 •  08:37 thứ hai ngày 27/03/2006
* Ngày 7/4/1990, Hội đồng Bộ trưởng quyết định chuyển giao chức năng quản lý nhà nước của Tổng cục Bưu điện sang Bộ Giao thông vận tải và ra nghị quyết thành lập Tổng Công ty BC-VT. Ông Đặng Văn Thân được bổ nhiệm giữ chức Tổng Giám đốc.* Cuối 1989, đầu 1990, những tổng đài kỹ thuật số Alcatel E10B đầu tiên được lắp đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Tiếp đó, các Công ty Viễn thông Quốc tế - VTI; Viễn thông Liên tỉnh - VTN; Điện toán và Truyền số liệu - VDC; Bưu chính Liên tỉnh và Quốc tế - VPS; các Công ty Dịch vụ kỹ thuật và Xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị bưu chính viễn thông - COKYVINA và POTMASCO II được thành lập.

* Tháng 10/1992, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định thành lập lại Tổng cục Bưu điện. Ông Đặng Văn Thân được bổ nhiệm giữ chức Tổng Cục trưởng. Lúc này, mô hình và tổ chức hoạt động của Tổng Công ty cũng có nhiều thay đổi tích cực. Tổng Công ty tách khỏi chức năng quản lý nhà nước và trở thành đơn vị sản xuất, kinh doanh, quản lý khai thác và cung cấp các dịch vụ bưu chính, viễn thông trực thuộc Tổng cục Bưu điện.

* Toàn ngành bước vào triển khai Chiến lược tăng tốc phát triển Bưu chính Viễn thông. Tháng 8/1993, tuyến cáp quang đường trục Hà Nội-Tp.HCM dung lượng 34Mb/s đầu tiên được đưa vào sử dụng. Tháng 10 cùng năm, hệ thống vi ba số băng rộng dung lượng 140Mb/s được đưa vào khai thác trên tuyến trục Bắc-Nam. Tháng 12/1993 ghi nhận một sự kiện lịch sử của Bưu điện Việt Nam: Mạng viễn thông liên tỉnh được số hoá trên toàn bộ 53/53 tỉnh, thành phố trong cả nước. Cũng trong năm 1993, mạng thông tin di động MobiFone sử dụng công nghệ GSM lần đầu tiên được đưa vào khai thác ở Việt Nam.

* Tháng 4/1995, nhận thấy rõ tiềm năng và vai trò chủ đạo của Tổng Công ty, Chính phủ quyết định thành lập Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam theo mô hình Tổng Công ty 91 trực thuộc Chính phủ với tên giao dịch quốc tế viết tắt là VNPT. Đây là một bước chuyển biến mới về chất, công tác quản lý Nhà nước được tăng cường do tách bạch rõ với sản xuất và kinh doanh. Chính phủ đã ra quyết định bổ nhiệm ông Đỗ Trung Tá giữ chức vụ Chủ tịch HĐQT VNPT. Cũng trong năm này, Chính phủ đã quyết định cho thành lập một số doanh nghiệp mới khác cùng kinh doanh trên thị trường BCVT và CNTT như: Công ty Điện tử Viễn thông Quân đội - Viettel; Công ty Cổ phần Bưu chính Viễn thông Sài gòn - SPT...

* Năm 1995, VNPT đã có 742.000 thuê bao điện thoại, đưa mật độ điện thoại của Việt Nam lên 1 máy/100 dân. Với con số này, lần đầu tiên mạng viễn thông Việt Nam có tên trên bản đồ viễn thông thế giới. Ghi nhận những đóng góp lớn của ngành đối với đất nước, nhân kỷ niệm 50 năm Ngày truyền thống của ngành, Đảng và Nhà nước quyết định tặng thưởng Huân chương Sao Vàng - Huân chương ghi nhận công trạng cao nhất của Nhà nước ta - cho ngành Bưu điện. Đây cũng là lần đầu tiên một ngành kinh tế kỹ thuật được tặng Huân chương cao quý này.

* Công nghiệp Bưu điện trong giai đoạn 1993-1995 đã có những bước tiến mới theo hướng đi thẳng vào công nghệ hiện đại, mở rộng hợp tác liên doanh, tiếp nhận chuyển giao công nghệ. Hết năm 1995 đã có tổng số 6 liên doanh sản xuất thiết bị công nghiệp thông tin đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước về phát triển viễn thông.

* Cuối năm 1995, kết thúc Kế hoạch Tăng tốc giai đoạn I (1993-1995), hệ thống tổng đài và truyền dẫn trên toàn mạng viễn thông đã được số hoá hoàn toàn. Việt Nam trở thành một trong những nước có mức độ số hoá mạng lưới cao nhất Đông Nam á. Bưu điện trở thành ngành đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, CNH-HĐH đất nước.

* Năm 1996, VNPT đi vào kế hoạch tăng tốc giai đoạn II (1996-2000). Với việc đầu tư phát triển mạnh công nghệ và mạng lưới của VNPT, tháng 8/1996, Việt Nam đã có 1 triệu thuê bao điện thoại và trở thành một trong 60 nước có mạng điện thoại trên 1 triệu thuê bao. Năm 1996 cũng đánh dấu sự ra đời mạng di động VinaPhone - mạng di động sử dụng công nghệ GSM thứ hai của VNPT.

* Tháng 11/1997, VNPT chính thức khai trương mạng Internet. Đây là sự kiện tiếp tục ghi nhận sự phát triển hạ tầng VT- CNTT đi trước một bước của Việt Nam. Cũng trong năm 1997, Học viện CNBCVT được thành lập trực thuộc VNPT. Học viện với chức năng vừa nghiên cứu khoa học, vừa đào tạo cấp đại học và trên đại học cho VNPT và cho ngành Bưu điện.

* Năm 1998, Điểm Bưu điện-Văn hoá xã, một mô hình sáng tạo của VNPT ra đời. Đây thực sự là một đột phá lớn, chưa có tiền lệ ở nông thôn Việt Nam, góp phần không nhỏ đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn Việt Nam.

* Năm 1999, VNPT đã có 2,5 triệu thuê bao điện thoại, đưa Việt Nam trở thành một trong 30 nưước có trên 2 triệu thuê bao điện thoại. Và năm này, VNPT cũng đã có 3.000 bưu cục trên toàn quốc; tổ chức 7 điểm truyền in báo từ xa; 60/61 tỉnh, thành phố có báo Đảng đến trong ngày. Công nghiệp bưu điện với 17 đơn vị trong đó có 8 đơn vị liên doanh đã sản xuất được nhiều chủng loại thiết bị phục vụ mạng lưới trong nước và xuất khẩu.

* Năm 2000, VNPT bắt đầu triển khai thí điểm tách bưu chính và viễn thông. Đây là bước đi sớm và cần thiết để thúc đẩy cả hai lĩnh vực cùng phát triển mạnh hơn, hạch toán rõ giữa phục vụ công ích với kinh doanh và là một trong những điều kiện cơ bản cho việc thành lập Tập đoàn Bưu chính Viễn thông. Cũng trong giai đoạn từ 1998- 2000, các công ty Tài chính Bưu điện, Cổ phần bảo hiểm Bưu điện, Dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện, Phát triển Phần mềm... đã được thành lập. VNPT kết thúc thắng lợi Chiến lược tăng tốc độ phát triển Bưu chính Viễn thông 1993-2000, cơ sở hạ tầng BCVT-CNTT đã ngày càng được hiện đại hóa và phát triển rộng khắp, đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ Đổi mới, bảo đảm phục vụ tốt an ninh, quốc phòng. Việt Nam đã có 3 triệu thuê bao điện thoại cả cố định và di động, là một trong 10 nưước dẫn đầu thế giới về tốc độ phát triển mạng viễn thông.

* Ngày 07/06/2002, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông, đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới về quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực BCVT và CNTT trong giai đoạn Hội nhập và Phát triển. Cùng với Pháp lệnh Bưưu chính Viễn thông, việc thành lập Bộ Bưưu chính,Viễn thông vào tháng 8/2002 đã mở ra một thời kỳ mới đối với sự phát triển toàn diện của lĩnh vực Bưưu chính-Viễn thông- CNTT Việt Nam. Theo đề nghị của Chính phủ, Quốc hội khoá XI đã phê chuẩn ông Đỗ Trung Tá - UVTW Đảng, Chủ tịch HĐQT giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Bưưu chính,Viễn thông.

* Cũng trong năm 2002, VNPT đạt 5 triệu thuê bao điện thoại, đưa mật độ điện thoại của Việt Nam lên 6,26 máy/100 dân. Mẫu biểu trưng thương mại mới của VNPT ra đời thay cho việc sử dụng biểu trưng của ngành qua nhiều năm, mở đầu cho việc xây dựng hệ thống nhận diện thương hiệu của VNPT về sau.

* Tháng 12/2003, mạng điện thoại của VNPT đạt 7 triệu thuê bao, đưa mật độ điện thoại của Việt Nam lên 8 máy/100 dân. Với con số này, VNPT đã về đích trưước 2 năm, hoàn thành, chỉ tiêu phát triển điện thoại mà Đại hội Đảng IX đề ra cho năm 2005.

* Tháng 10/2004, bắt kịp với xu hướng phát triển công nghệ của thế giới, VNPT đã chính thức khai trương và đưa ra khai thác các dịch vụ trên nền mạng NGN. Đây là một bước chuyển biến mang tính cách mạng về công nghệ đối với cả mạng Viễn thông Việt Nam. Với cơ sở hạ tầng mạng NGN, mạng viễn thông của VNPT có khả năng cung cấp đa dạng các dịch vụ từ truyền thống cho tới hàng loạt các dịch vụ băng rộng với chất lượng cao. Tháng 1/2005, mạng điện thoại của VNPT đạt 10 triệu thuê bao, đạt mật độ trên 12,7 máy/100 dân.

* Ngày 18/10/2005, Thủ tướng Chính phủ chính thức quyết định giao cho VNPT thực hiện Dự án Phóng vệ tinh viễn thông Việt Nam (VINASAT). Theo kế hoạch, quý II/2008, vệ tinh địa tĩnh VINASAT sẽ được đưa vào hoạt động, đây sẽ là sự kiện đánh dấu một bước phát triển mới của cơ sở hạ tầng Viễn thông - CNTT và Truyền thông của đất nước.

* Kết thúc năm 2005, VNPT đã có 17.000 điểm phục vụ bưu chính viễn thông, trong đó có hơn 7.500 điểm Bưu điện - Văn hoá xã được đưa vào hoạt động. 100 % số xã trong cả nước đã có điện thoại và báo đọc trong ngày. Mạng điện thoại của VNPT đạt con số trên 13,2 triệu thuê bao, đạt mật độ 15,8 máy/100 dân, vượt gần gấp đôi chỉ tiêu mà Đại hội IX của Đảng đề ra cho năm 2005 là từ 7-8 máy/100 dân. Tổng số thuê bao Internet của VNPT đạt hơn 1,3 triệu thuê bao chiếm 44,5% thị phần Internet của Việt Nam, là ISP lớn nhất trong số 7 ISP đang khai thác Internet. Cuối năm 2005, hệ thống nhận diện thương hiệu mới với câu hiệu (slogan) VNPT- Cuộc sống đích thực đã được VNPT đưa vào sử dụng, khẳng định một cam kết vì con người, vì cộng đồng và vì sự phát triển bền vững của đất nước.

* Ngày 23/3/2005, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thí điểm xây dựng Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam tại Quyết định số 58/2005/QĐ-TTg. Đây là cơ sở pháp lý cơ bản để VNPT, Bộ Bưu chính Viễn thông và các bộ ngành có liên quan khác triển khai quá trình chuyển đổi về tổ chức và quản lý theo hướng xây dựng VNPT thành một tập đoàn kinh tế mạnh, đưa BCVT-CNTT Việt Nam bắt kịp với trình độ và tốc độ phát triển trên thế giới. Theo đó, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam được hình thành trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại VNPT và phát triển theo mô hình Tập đoàn kinh tế Nhà nước kinh doanh đa ngành cả trong nước và quốc tế, trong đó Viễn thông, CNTT và Bưu chính là các ngành kinh doanh chính. Bộ máy quản lý của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam sẽ bao gồm: Hội đồng Quản trị, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc, Kế toán trưởng và bộ máy giúp việc.

* Ngày 09/01/2006, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 06/2006/QĐ-TTg về việc thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn BCVT Việt Nam. Ngày 21/2/2006, Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 349/QĐ-TTg bổ nhiệm các thành viên Hội đồng Quản trị của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Theo đó, ông Phạm Long Trận, Uỷ viên thường trực HĐQT - Tổng Giám đốc VNPT được bổ nhiệm Quyền Chủ tịch HĐQT Tập đoàn BCVT Việt Nam.

* Ngày 26/3/2006, tại Hà Nội, Tập đoàn BCVT Việt Nam tổ chức Lễ công bố Quyết định của Chính phủ về việc thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn BCVT Việt Nam, chính thức ra mắt và bắt đầu đi vào hoạt động./.
Theo VNPT
Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam chính thức ra mắt